Nhìn một cách tổng quát, nhóm các mặt hàng thời trang, nội thất và đồ gia dụng của Việt Nam hiện vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là về chất lượng sản phẩm, trình độ kỹ thuật, khả năng đáp ứng các đề nghị khe khắt về lao động, môi trường.
Để giúp lấy lại đà tăng trưởng cho ngành hàng thế mạnh của Việt Nam, việc chuyển đổi xanh, ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là khuynh hướng phát triển tất yếu và thiên hướng này đang dần hình thành luật chơi mới về thương nghiệp và đầu tư trên toàn cầu. do vậy, doanh nghiệp trong lĩnh vực cần luôn chủ động, có chiến lược rõ ràng và cập nhật khuynh hướng thẳng tại các thị trường xuất khẩu.
Trong khuôn khổ chuỗi sự kiện “Kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế - Viet Nam International Sourcing 2023", vừa qua, tại trọng tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn (SECC), Quận 7, thành thị Hồ Chí Minh, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ công thương nghiệp) đã tổ chức Hội thảo quốc tế “Đưa hàng thời trang, nội thất và gia dụng Việt Nam vào hệ thống phân phối nước ngoài”
Việt Nam vươn lên là một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới
Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ cho biết, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của hai ngành dệt may và da giày tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Trong đó, dệt may đạt 37,5 tỷ USD, tăng 14,3%; da giày đạt 23,9 tỷ USD, tăng 34,3% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sản phẩm gỗ vốn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu ngành nội thất và đồ gia dụng cũng đạt 10,9 tỷ USD, giảm 1,3% so với năm 2021.
Nếu nhìn một cách tổng quát, nhóm các mặt hàng thời trang, nội thất và đồ gia dụng của Việt Nam hiện vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là về chất lượng sản phẩm, trình độ kỹ thuật, khả năng đáp ứng các yêu cầu khe khắt về lao động, môi trường, nhất là các ưu đãi thuế quan từ 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực hiện có với nhiều đối tác trên thế giới, đặc biệt là CPTPP, EVFTA, UKVFTA… bây chừ, Việt Nam đã vươn lên trở nên một trong những nhà nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về nhóm ngành hàng này, trong đó Việt Nam hiện là nước xuất khẩu lớn thứ 2 về da giày, thứ 3 về dệt may và thứ 5 thế giới về gỗ và sản phẩm từ gỗ.
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu lớn thứ 2 về da giày, thứ 3 về dệt may và thứ 5 thế giới về gỗ và sản phẩm từ gỗ
tuy thế, sau thời kỳ bình phục mạnh mẽ hậu Covid-19, nhóm ngành hàng thời trang và đồ gia dụng của Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có trong xuất khẩu ra thế giới, cốt tử do tình hình lạm phát, nguy cơ suy thoái kinh tế, sức tiêu dùng suy giảm, đặc biệt với nhóm vật dụng không thiết yếu cùng lượng tồn kho khá lớn sau thời kỳ nhập hàng để đề phòng đứt gãy chuỗi cung ứng.
Trong 8 tháng đầu năm 2023, nhóm hàng thời trang bao gồm dệt may và da giày, kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường trọng điểm chứng kiến đà sụt giảm tương đối mạnh. Thị trường xuất khẩu quan yếu nhất của dệt may và da giày Việt Nam là Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu lần lượt giảm 22,7% và 32% so với cùng kỳ.
Tại thị trường EU cũng chứng kiến đà giảm tốc xuất khẩu na ná, khi kim ngạch xuất khẩu da giày giảm 19%, còn dệt may có tín hiệu tích cực hơn khi tăng trưởng 12,3%. Xuất khẩu ngành hàng gỗ và đồ gỗ sang Hoa Kỳ và EU đối mặt với tình trạng thậm chí còn u ám hơn, tuần tự giảm 27% và 40% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Mặc dù nhóm sản phẩm nói trên hiện vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh, đặc biệt duyệt các ưu đãi về thuế quan từ 15 FTA song phương và khu vực hiện có với nhiều đối tác trên thế giới, tuy nhiên nhóm ngành hàng thời trang, nội thất hay gia dụng của Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu ra thế giới cốt yếu do sức tiêu dùng suy giảm đối với nhóm hàng hóa không thiết yếu tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, EU, các nước CPTPP...
Cùng với đó, các thị trường kể trên ngày càng đặt ra những tiêu chuẩn mới, đòi hỏi khắt khe hơn, đặt ra nhiều nhiều thách thức chưa từng có tiền lệ cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Bộ Công Thương phát biểu tại Hội thảo.
thời gian qua, các thị trường xuất khẩu trung tâm của nhóm ngành thời trang, đồ gia dụng của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, các nước Đông Bắc Á hay các nước CPTPP ngày một đặt ra những tiêu chuẩn mới, đòi hỏi khắt khe hơn từ thị trường, liên hệ đến xanh hóa chuỗi sản xuất và cung ứng, các tiêu chí phát triển bền vững, sinh sản tuần hoàn… đặt ra nhiều những thách thức chưa từng có tiền lệ cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Mới đây nhất, thị trường EU đã đưa ra chính sách dùng sản phẩm tái chế đối với sản phẩm dệt may và tăng tốc thực thi chiến lược dệt may tuần hoàn và bền vững đề ra từ năm 2022 khiến doanh nghiệp Việt Nam đứng trước sức ép buộc phải chuyển đổi xanh, chuyển đổi số để giữ đơn hàng và thị phần.
Giữa tháng 5 vừa qua, EU cũng đã ban hành đạo luật về Cơ chế điều chỉnh biên thuỳ carbon (CBAM). Quy định này buộc các nhà du nhập vào EU phải thưa lượng phát thải carbon trong hàng hóa.
Hay vào cuối tháng 6, EU đã ban hành Quy định Chống suy thoái rừng (EUDR). Theo đó, các công ty kinh doanh gỗ và các sản phẩm phái sinh tại EU phải chứng minh hàng hóa mà họ bán không can hệ đến hoạt động phá rừng từ sau năm 2021.
Chuyển đổi xanh là khuynh hướng phát triển tất yếu
“Để có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường, giúp lấy lại đà tăng trưởng cho các ngành hàng thế mạnh kể trên, việc chuyển đổi xanh, ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là khuynh hướng phát triển tất yếu và xu hướng này đang dần hình thành luật chơi mới về thương mại và đầu tư trên toàn cầu.
Bên cạnh đó, với đặc thù là ngành hàng đòi hỏi phải liên tiếp đổi thay kiểu dáng, phù hợp với xu thế, gu thị trường, vì thế doanh nghiệp trong lĩnh vực cần luôn chủ động, có chiến lược rõ ràng và cập nhật xu hướng thời trang luôn tại các thị trường xuất khẩu.” - ông Tạ Hoàng Linh nhấn mạnh.
Để giúp lấy lại đà tăng trưởng cho các ngành hàng thế mạnh kể trên, việc chuyển đổi xanh, ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là khuynh hướng phát triển thế tất và thiên hướng này đang dần hình thành luật chơi mới về thương nghiệp và đầu tư trên toàn cầu.
Cùng ý kiến, ông Nguyễn Chánh Phương, Phó chủ toạ kiêm Tổng thư ký Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ tỉnh thành Hồ Chí Minh (HAWA) nhấn mạnh, Việt Nam đang là trung tâm sản xuất sản phẩm gỗ cho thế giới; có lợi thế về chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, vững bền về chính sách, con người, nguồn cung nguyên vật liệu.
Nhóm ngành gỗ, nội thất đang hăng hái mở mang xuất khẩu online, xuất khẩu theo các dự án. Việc đẩy mạnh quảng bá thương hiệu nội thất nhà nước tại các hội chợ quốc tế về nội thất là một chiến lược mà doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng, đồng thời, cần hình thành trung tâm logistics để thúc đẩy thương mại đồ nội thất Việt Nam đạt hiệu quả cao.
Về mở mang thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp cần bứt phá khỏi các thị trường truyền thống, hướng đến các thị trường có sức mua tốt như Canada, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất…
Đại diện về nội thất, ông Eryk Dolinski, Giám đốc Phát triển kinh dinh sản phẩm gỗ, Bộ phận cung ứng Tập đoàn IKEA khu vực Đông Nam Á, cho biết IKEA có 463 điểm kinh dinh nội thất trên 62 nhà nước với doanh thu năm 2022 đạt 44,6 tỷ USD. IKEA bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ 1993 và đã làm việc với 43 nhà cung cấp khắp cả nước với nhiều nhóm mặt hàng, ngoài gỗ còn có hàng lắp ráp, sợi thiên nhiên, kim loại, sản phẩm gia dụng và chiếu sáng.
IKEA chọn Việt Nam tham dự chuỗi cung ứng của mình bởi ở đây có sẵn nguồn vật liệu thô gồm gỗ cao su và các loại gỗ khác; phí lao động cạnh tranh; cơ sở hạ tầng logistics phát triển và quan yếu nhất là nền kinh tế của Việt Nam phát triển ổn định trong thời kì dài.
Tuy nhiên, ngành chế biến gỗ và nội thất của Việt Nam vẫn có những thách thức, đó là thâm dụng lao động lớn, nguồn vật liệu cốt tử vẫn nằm trong ở các nông hộ nhỏ lẻ khó truy xuất cỗi nguồn. Khoảng cách địa lý xa tạo thêm phí tổn và thời gian chuyển vận từ kho hàng tại Việt Nam đến các nhà nước khác.
Để giải quyết các vấn đề trên, ông Eryk Dolinski cho rằng ngành gỗ và nội thất cần tập kết đầu tư cho tự động hóa giúp tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Tự động hóa không chỉ trong nhà máy mà trong toàn chuỗi cung ứng để đáp ứng được yêu cầu càng ngày càng cao của thị trường.
đồng thời, phải tạo ra môi trường lao động tốt hơn và giảm phát thải khí carbon; tăng cường hiệu quả trong chứng thực nguồn cội gỗ. Tối ưu hóa chuỗi cung ứng từ chuyên chở nguyên liệu, nhà máy cưa, xẻ đến các công đoạn sinh sản, vận tải phải được chú trọng nhằm tiện tặn tối đa nguyên liệu, năng lượng, hoài logistics.
Uniqlo ưu tiên chuyển đổi và nâng tỷ lệ dùng năng lượng tái hiện tại các nhà máy, giảm lượng nước dùng trong quá trình sản xuất…
Với lĩnh vực thời trang, đại diện Tập đoàn Uniqlo nhấn mạnh các xu hướng trong tiêu dùng hiện nay là ưu tiên sản phẩm vững bền, sáng tỏ thông tin, ít phát thải và tái sử dụng. Trong bối cảnh đó, đích của Uniqlo là nâng tỷ lệ nguyên liệu tái chế và các nguyên liệu khác có lượng phát thải khí nhà kính thấp từ 5% năm 2022 lên 50% vào năm 2030. Uniqlo cũng ưu tiên chuyển đổi và nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái hiện tại các nhà máy, giảm lượng nước sử dụng trong quá trình sinh sản… Điều này cũng chính là yêu cầu chung cho quờ các đơn vị muốn tham dự vào chuỗi cung ứng của Uniqlo.
Bà Brigitte Heuser, Chuyên gia về ngành dệt may của Chương trình xúc tiến nhập khẩu Thụy Sĩ (SIPPO) chia sẻ, các doanh nghiệp dệt may, thời trang nói chung có thể sử dụng những kinh nghiệm của Uniqlo để định hướng về kinh tế tuần hoàn, vật liệu vững bền, làm sao giảm "dấu chân" carbon cho sản phẩm của mình.
Vấn đề của ngành dệt may hiện nay chính là tìm ra giải pháp giảm thời gian sản xuất, giảm sử dụng các tài nguyên không tái tạo, cập nhật và đáp ứng các xu hướng mới, các chứng nhận về môi trường.
Theo bà Brigitte Heuser, các nhà mua hàng quốc tế đang có xu hướng gia tăng tìm nguồn cung ứng tại Việt Nam, nhưng để khẩn hoang hiệu quả thời cơ đó, doanh nghiệp Việt cần có sự chuẩn bị để thích nghi với sự chuyển dịch của thị trường, linh hoạt trong sản xuất theo số lượng, nắm bắt được nhu cầu, văn hóa của đối tác. Với các thị trường lớn, đặc biệt là EU, bức phải đạt được các chứng nhận thì "cửa" mới mở.
Cần lưu ý các tiêu chuẩn mà thị trường đề nghị không chỉ với một doanh nghiệp mà với cả chuỗi cung ứng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong chuỗi phải chủ động cộng tác, liên kết chặt chịa để cùng nhau phát triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét